Với khoảng 30.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động, doanh thu toàn ngành đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng và tạo việc làm cho trên 1,2 triệu lao động, ngành cơ khí trong nước đã từng bước làm chủ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tạo động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh tế khác phát triển. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm mang thương hiệu Việt, rõ nét dấu ấn Việt Nam vẫn chưa nhiều; những hạn chế về nguồn cung ứng vật liệu sản xuất, đang là rào cản lớn đối với sự phát triển của ngành cơ khí.
Dần đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI), hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở 3 phân ngành chính, gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ; ô tô và phụ tùng ô tô. Đặc biệt, 3 phân ngành này chiếm gần tổng số 70% giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí cung cấp là các loại chi tiết, linh kiện, cụm linh kiện kim loại cho các ngành hạ nguồn. Thị trường chính của các doanh nghiệp trong ngành là các lĩnh vực sản xuất xe máy, máy móc công - nông nghiệp, ô tô.
Thời gian qua, một số sản phẩm cơ khí được sản xuất đạt chất lượng tốt, tương đương với chất lượng sản phẩm của một số quốc gia trong khu vực. Hiện nay, doanh nghiệp sản xuất linh kiện ngành cơ khí trong nước có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như khuôn mẫu các loại, linh kiện cơ khí, dây cáp điện, linh kiện nhựa, cao su kỹ thuật... Thêm vào đó, nhu cầu của thị trường công nghiệp hỗ trợ rất lớn nên nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, chú trọng phát triển các dòng sản phẩm chất lượng, phục vụ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hướng vào xuất khẩu sản phẩm cơ khí.
Linh kiện kim loại sản xuất trong nước hiện đã đáp ứng được 85 - 90% nhu cầu cho sản xuất xe máy; khoảng 15 - 40% nhu cầu linh kiện cho sản xuất ô tô (tùy chủng loại xe), khoảng 20% cho sản xuất thiết bị đồng bộ và 40 - 60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp, máy động lực và 40% cho máy xây dựng; cung ứng linh kiện kim loại cho các ngành công nghiệp công nghệ cao hiện đáp ứng khoảng 10% nhu cầu. Mặt khác, cơ khí chế tạo trong nước hiện nay cũng đã sản xuất, lắp ráp được hầu hết các chủng loại xe ôtô con, xe tải, xe khách; sản xuất xe máy đã có tỷ lệ nội địa hóa 85% - 95%, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trong đó, phải kể đến một số doanh nghiệp điển hình trong lĩnh vực ô tô như Vinfast, Thành Công, Thaco…
Giàn khoan tự nâng Tam Đảo 5 là công trình cơ khí trọng điểm quốc gia
Đặc biệt, Công ty CP Chế tạo Giàn khoan Dầu khí (PV Shipyard) đã thiết kế, chế tạo thành công giàn khoan tự nâng Tam đảo 3 và Tam Đảo 5 bằng nội lực của mình. Ngoài ra, một số doanh nghiệp cơ khí trong nước khác đã tự chủ sản xuất một số thiết bị cơ khí trọng điểm như Viện Nghiên cứu Cơ khí (Narime), Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) đã sản xuất thiết bị cho nhà máy thủy điện, nhiệt điện, xi măng…
Tạo lực đẩy để doanh nghiệp tham gia chuỗi
Bên cạnh những “điểm yếu” của công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí như thiết bị phần lớn là vạn năng, qua nhiều năm sử dụng đã lạc hậu về tính năng kỹ thuật, độ chính xác kém, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng định kỳ, thiếu vốn để đầu tư thay thế, đổi mới, nâng cấp; đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI) chỉ ra rằng, nhiều năm qua, hàng loạt hạn chế từ phía bản thân doanh nghiệp đã khiến ngành công nghiệp cơ khí phát triển khá mờ nhạt, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Đơn cử như năng lực của doanh nghiệp cơ khí chế tạo trong nước còn hạn chế, phần lớn chưa làm chủ được nguồn vốn, phải đi vay để đầu tư với lãi suất cao và bị ràng buộc bởi các điều kiện bất lợi của nhà tài trợ hay đối tác tài chính; công nghệ còn đơn giản so với các nước trong cùng khu vực. Cùng với đó là sự thiếu liên kết và tập hợp của các doanh nghiệp cơ khí, dẫn tới khó hình thành các tập đoàn công nghiệp cơ khí chuyên sâu, mang lại hiệu quả đầu tư.
Tổ hợp cơ khí Thaco Chu Lai
Cho rằng đa phần doanh nghiệp nội có quy mô vừa và nhỏ nên rất khó “đua” với các doanh nghiệp ngoại có quy mô lớn, cũng như khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ, ông Đỗ Phước Tống, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Cơ khí Duy Khanh cho biết, chỉ riêng về thuế, nếu doanh nghiệp ngoại đầu tư sản xuất tại Việt Nam sẽ được miễn, giảm thuế nhập khẩu công nghệ, dây chuyền sản xuất; lãi suất vay trung hạn dành cho sản xuất cũng ở mức 2% - 3%; được hưởng ưu đãi chi phí thuê đất, thậm chí là được hỗ trợ diện tích đất đầu tư; được giảm chi phí tiền điện; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm đầu (tùy lĩnh vực)… Còn với doanh nghiệp nội, nếu nhập khẩu công nghệ, dây chuyền đầu tư cho sản xuất cũng phải tìm kiếm đất xây dựng nhà xưởng...
Theo ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội, cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói chung, ngành cơ khí nói riêng rất cần được quan tâm về mặt chính sách, được hỗ trợ giải quyết một số vấn đề vướng mắc để phát triển. Trong đó, điểm nhấn là vốn, kết nối các doanh nghiệp, tập đoàn lớn quốc tế là hết sức quan trọng, nhằm thúc đẩy và “tạo lực kéo”, trực tiếp ứng dụng công nghệ vào sản xuất sản phẩm để ngành cơ khí tham gia vào chuỗi.
Đồng tình với quan điểm đó, nhiều chuyên gia cho rằng, để phát triển ngành cơ khí, Việt Nam cần xác định nhu cầu thị trường, chỉ rõ những khoảng trống để phát triển những lĩnh vực mà ngành có thể cạnh tranh được. Ngoài việc tạo thị trường cho doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách phải linh hoạt để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa. Đặc biệt, phải chú trọng phát triển ngành cơ khí luyện kim, công nghiệp hỗ trợ...
Viết bình luận